Array
(
[0] => stdClass Object
(
[id] => 635
[id_crawler] =>
[category_product] => NULL
[thumbnail] => tin-tuc/2021/01/gs_nguyen_dinh_tao.jpg
[album] =>
[url_video] =>
[is_status] => 1
[is_featured] => 0
[is_form] => 0
[displayed_time] => 2021-01-20
[program] => 0
[number] => 1
[viewed] => 0
[type] =>
[type_career] =>
[level] =>
[address] =>
[address_career] =>
[expiration_time] => 0000-00-00
[created_time] => 2021-01-20 15:13:29
[updated_time] => 2021-01-20 15:13:35
[files] =>
[salary] =>
[time] =>
[created_by] =>
[is_table_content] =>
[language_code] => vi
[slug] => goc-nhin-da-chieu-ve-that-bai-lam-to-lien-tiep-nguyen-nhan-va-huong-dieu-tri-gs-nguyen-dinh-tao-phan-2
[title] => Góc nhìn đa chiều về thất bại làm tổ liên tiếp: nguyên nhân và hướng điều trị - GS Nguyễn Đình Tảo (phần 2)
[description] => Đây là bài báo cáo của GS.TS Nguyễn Đình Tảo tại Hội nghị khoa học Hội Hỗ trợ sinh sản Tp.HN lần thứ nhất vào ngày 06/12/2020. Chúng tôi xin được đăng tải đầy đủ nội dung của bài báo cáo. Vì bài báo cáo rất dài nên được đăng tải thành nhiều bài.
[content] => 
Tiếp: Các nguyên nhân gây ra RIF
1.7 Bất thường giải phẫu tử cung và độ dày NMTC
Có một số loại bệnh lý TC bao gồm polyp, u xơ và dính có thể ảnh hưởng đến tỷ lệ ở bệnh nhân làm IVF. Đôi khi những vấn đề này có thể không được chú ý trên siêu âm, nhưng sẽ phát hiện được bằng nội soi TC [29].
1.7.1 U xơ tử cung (UXTC)
Cơ chế bệnh sinh liên quan đến RIF:
Phân loại theo FIGO có 3 dạng chính UXTC: U xơ dưới niêm mạc, u xơ trong cơ, u xơ thanh mạc. Các loại UXTC đều có ảnh hưởng nhất định lên quá trình làm tổ của phôi và tăng tỷ lệ gây sảy thai tùy vào vị trí, trong đó chiếm tỷ lệ nhiều nhất là UXTC dưới niêm mạc.
Polyp NMTC là sự phát triển quá mức của các tuyến NMTC và mô đệm trong khoang TC được cung cấp bởi một mạch máu .
Là tình trạng vòi TC bị tắc nghẽn bởi các dịch viêm, thường gặp sau khi bị nhiễm các bệnh lây truyền qua đường tình dục hay nhiễm Chlamydia.
Phương pháp điều trị được sự đồng thuận của nhiều hiệp hội, chuyên gia là phẫu thuật thắt vòi TC, cắt vòi TC bị ứ dịch trước khi làm IVF để tăng tỷ lệ thành công.
Là tình trạng NMTC bị tắc nghẽn khoang NMTC bởi các cấu trúc xơ sợi, thường gặp ở phụ nữ sau nạo hút phá thai trước đó. Được biết đến trong bệnh cảnh của hội chứng Asherman gồm một số vấn đề như vô kinh, thiểu kinh, vô sinh hiếm muộn, sảy thai liên tiếp…
Bản thân NMTC cũng có thể là nguồn gốc của thất bại làm tổ. Tiền sử tổn thương NMTC, sử dụng thuốc tránh thai kéo dài và suy giảm lưu lượng máu đến TC đều là những nguyên nhân khiến NMTC mỏng [30]. Đánh giá lưu lượng máu trong các động mạch hướng tâm TC rất hữu ích, khi lưu lượng máu giảm thì yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF) có thể bị giảm ảnh hưởng tới việc NMTC đạt đến độ dày thích hợp để làm tổ. Miwa và cs đã tiến hành nghiên cứu siêu âm Doppler qua ngả âm đạo cho thấy chỉ số sức cản của động mạch TC cao hơn đáng kể ở những bệnh nhân có NMTC mỏng <8 mm so với nhóm bệnh nhân có NMTC dày bình thường> 8 mm (p<0,05) [31]. Độ dày của NMTC đã được xác định là có ảnh hưởng đến IR. Mặc dù ngưỡng chính xác cho độ dày NMTC chưa được nhất trí, người ta cho rằng khoảng 8 mm là giới hạn dưới mà ART vẫn có thể thành công. Từ độ dày 9 mm đến 16 mm, cơ hội có thai tăng từ 53 đến 77% cho thấy có sự khác biệt đáng kể về IR [32].
Nghiên cứu hệ vi sinh vật bình thường trong âm đạo cho thấy chủng Lactobacillus chiếm ưu thế. Với việc sản xuất axit lactic, chủng Lactobacillus sẽ ngăn chặn sự phát triển của các vi khuẩn gây nhiễm trùng âm đạo, nhiễm khuẩn tiết niệu, cũng như nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục.
Viêm âm đạo do vi khuẩn gây ra do sự thay đổi từ hệ vi sinh vật âm đạo. Cụ thể, từ chỗ chủng Lactobacillus chiếm ưu thế thì bị thay bởi một quần thể vi khuẩn khác chiếm ưu thế bao gồm Atopobium vaginalis, Gardnerella vaginalis, Dialister spp, Megasphaera spp, Prevotella spp, Sneathia sp [33]. Tác động của viêm âm đạo đối với vô sinh và thành công của IVF vẫn chưa rõ ràng [34]. Đáng lưu ý, tỷ lệ nhiễm viêm âm đạo xảy ra ở 40% phụ nữ được điều trị HTSS [35].
Thay đổi thành phần hệ sinh thái vi khuẩn trong NMTC cũng làm giảm sự làm tổ. Hầu hết các tác nhân gây bệnh được tìm thấy bao gồm các vi khuẩn thông thường như Streptococcus Nhóm B, Escheria Coli và Enterococcus Faecalis, hoặc Mycoplasma. Trong một số trường hợp, nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục như Chlamydia có thể là nguyên nhân [36].
Nghiên cứu của Moreno và cs 2016 ghi nhận Lactobacillus là vi khuẩn chiếm ưu thế trong NMTC. NMTC có Lactobacillus chiếm ưu thế thì đạt IR cao hơn (60,7% so với 23,1%) và LBR cao hơn (58,8% so với 6,75%) so với những người có NMTC không có Lactobacillus chiếm ưu thế (thay vào đó là các vi khuẩn Gardnerella, Streptococcus, và các sinh vật khác) [37]. Kushnir và cs nhận thấy rằng trong số bệnh nhân vô sinh, 45% có viêm NMTC mãn tính, đặc biệt là những người có RIF [38].
Tuổi của người mẹ đóng vai trò quan trọng trong chất lượng của phôi được sử dụng cho IVF [1]. Salumets và cs cho rằng yếu tố chính dự đoán kết quả mang thai trong FET là tuổi mẹ. Shapiro và cs nhận thấy rằng tỷ lệ phôi thai không đồng bộ với NMTC tăng lên khi tuổi mẹ tăng. LBR cao hơn đáng kể ở nhóm bệnh nhân <35 tuổi (50,7%) so với nhóm bệnh nhân > 35 (28,5%). Bệnh nhân >35 tuổi cũng bị giảm số lượng noãn, số lượng phôi nang và độ dày NMTC [39].
BMI cao (> 25 kg/m2) cũng đã được chứng minh là ảnh hưởng đến IR [40]. Ở những bệnh nhân làm IVF, bệnh nhân béo phì loại I, II và III có nguy cơ thất bại cao nhất tương ứng, 0,69 ; 0,52 và 0,58, khi so sánh với những bệnh nhân có cân nặng bình thường (BMI 18,5–24,99 kg/m2) [41]. Ngoài ra, những phụ nữ thừa cân và béo phì làm IVF có số lượng noãn thu được ít hơn, có nguy cơ thất bại và sảy thai cao hơn so với những phụ nữ có cân nặng bình thường cùng số lượng noãn thu được [40]. Phụ nữ béo phì cần nhiều gonadotropin kích trứng hơn, nhưng họ có số lượng tế bào trứng ít hơn (trung bình là 8 so với 10 ở phụ nữ không béo phì, p = 0,03) [42]. BMI tăng cao được coi là yếu tố nguy cơ chỉ xếp sau mẹ lớn tuổi trong nhóm bệnh nhân bị sẩy thai liên tiếp [43].
Khó để đánh giá tác động của hút thuốc đối đối với sức khỏe sinh sản do sai lệch trong việc tự báo cáo về việc hút thuốc khi mang thai [44]. Ở những phụ nữ làm IVF, bệnh nhân hút thuốc có mức estradiol thấp hơn trong quá trình kích thích buồng trứng. Chất độc trong thuốc lá có thể đóng một vai trò trong việc phá vỡ sự hình thành hoàng thể và sự của phôi [44]. Fuentes và cs cũng chứng minh rằng những phụ nữ hút thuốc có nồng độ cotinine huyết thanh càng cao (một chất chuyển hóa nicotin) thì có càng ít noãn hơn [45]. Ngoài ra, bệnh nhân hút thuốc có LBR giảm, cho thấy hút thuốc có tác động tiêu cực đến kết quả mang thai [46]. Cũng cần xem xét ảnh hưởng của việc hút thuốc đối với khả năng sinh sản của nam giới. Kunzle và cs nhận thấy rằng nam giới hút thuốc có số lượng tinh trùng giảm đáng kể, tỷ lệ hình thái bất thường cao hơn, giảm nhu động và tăng mức độ pH được đo bằng nồng độ citrat [47].
Nó dẫn tới mức độ cao của cortisol, còn được gọi là “hormone căng thẳng” dẫn đến nguy cơ sảy thai cao hơn 2,7 lần (CI95% = 1,2–6,2) trong vòng 3 tuần đầu tiên sau khi thụ thai so với những phụ nữ có mức độ cortisol thấp. Việc sản xuất cortisol trong cơ thể tăng lên để phản ứng với các yếu tố tâm lý, miễn dịch và các yếu tố gây căng thẳng khác [48]. Điều này cho thấy rằng việc ngăn ngừa hoặc giảm bớt các tác nhân gây căng thẳng cho mẹ có thể mang lại kết quả tích cực cho thai kỳ.
Cửa sổ làm tổ (WOI) thường chỉ kéo dài trong 4 hoặc 5 ngày và bắt đầu vào khoảng 6 ngày sau khi rụng trứng [49]. Một trong những cơ chế có liên quan đến RIF là sự thay đổi khả năng tiếp nhận của NMTC, mà cụ thể là liên quan đến sự đến sớm hoặc muộn của WOI. Ruiz-Alonso và cs đã sử dụng xét nghiệm đánh giá độ tiếp nhận của NMTC (endometrial receptivity array-ERA) để xác định WOI dựa trên 238 gen ở phụ nữ mắc RIF. Ở 25% bệnh nhân, thời gian WOI bị thay đổi, và dựa trên dữ liệu thu thập được từ ERA, người ta thay đổi thời gian chuyển phôi, điều đó làm IR tăng lên bằng tỷ lệ của những người WOI bình thường [50]. Một nghiên cứu tương tự đã được thực hiện bởi Hashimoto. Sử dụng xét nghiệm ERA, họ xác định xem NMTC có tiếp nhận hay không tiếp nhận trước khi thực hiện chuyển phôi. Phân theo kết quả ERA test, tỷ lệ có thai ở 2 nhóm tiếp nhận và không tiếp nhận là tương đương nhau (32,8% so với 31,6%) [51]. Từ 2 kết quả trên gợi ý rằng: ở một số bệnh nhân RIF có thể không tìm thấy bệnh lý thực thể mà do sự thay đổi WOI.
Một số phương pháp điều trị cho bệnh nhân có SDF cao đã được tìm thấy. Thứ nhất là liệu pháp chống oxy hóa bằng đường uống [3]. Thứ hai, trên cơ sở quan sát SDF ở ống sinh tinh thấp hơn so với ở mào tinh và tinh trùng được xuất tinh, có ý kiến đề xuất rằng những người đàn ông bị tổn thương DNA tinh trùng ở mức độ nặng nên sử dụng tinh trùng trích xuất từ tinh hoàn khi làm ICSI [4]. Những cặp vợ chồng thất bại IVF nhiều lần mà có nguyên nhân do SDF cao, sau khi áp dụng phương pháp điều trị sử dụng tinh trùng trích xuất từ tinh hoàn, đã cho kết cục IVF cải thiện, cụ thể tăng tỷ lệ có thai và giảm tỷ lệ sảy thai [5], [6].
Theo ASRM, hỗ trợ thoát màng làm tăng CPR trên một số đối tượng chọn lọc [7], bao gồm:
Xét nghiệm di truyền tiền làm tổ (PGT) có thể được thực hiện bằng sinh thiết thế cực hoặc phôi bào ở giai đoạn phôi phân cắt hoặc lá nuôi ở giai đoạn phôi nang hoặc thậm chí là xét nghiệm tiền làm tổ không xâm lấn (NiPGT). Tuy nhiên trên thực hành, nhiều nghiên cứu ủng hộ sinh thiết lá nuôi giai đoạn phôi nang với các ưu điểm: phôi nang bao gồm nụ phôi sẽ phát triển thành thai nhi, và lá nuôi được coi là tiền thân của bánh rau sau này, do vậy lá nuôi không tham gia vào quá trình hình thành bào thai. Thứ hai là giai đoạn phôi nang, phôi đã kích hoạt bộ gen, cho phép kết quả PGT chính xác hơn [52]. Sinh thiết phôi nang cũng cho thấy ưu điểm khi đông phôi thủy tinh hóa ở giai đoạn này cho thấy tỷ lệ sống cao hơn nếu so sánh với phôi giai đoạn phân cắt [53]. Tuy vậy, theo một công bố mới của Cochrane 2019, tác giả thấy rằng chưa thể khẳng định được tương quan của LBR và PGT lá nuôi giai đoạn phôi nang, cần nhiều nghiên cứu làm rõ hơn nữa mối liên quan này trong quần thể bệnh nhân vô sinh nói chung.
Tuy nhiên một số nghiên cứu về hiệu quả của PGT thì cho kết quả khác. Rubio và cs [54] đánh giá vai trò của PGT bằng FISH trên hai nhóm phụ nữ khác nhau: nhóm 1 là phụ nữ <40 tuổi mắc RIF và nhóm 2 là mẹ lớn tuổi (từ 41–44 tuổi và không mắc RIF). Kết quả cho thấy trong nhóm mẹ lớn tuổi, LBR tăng đáng kể ở nhóm làm PGT so với nhóm không PGT (32,3% so với 15,5%). Đối với bệnh nhân RIF, LBR của nhóm thực hiện PGT cao hơn nhóm không PGT, tuy nhiên sự khác biệt chưa có ý nghĩa thống kê.
Trong một nghiên cứu khác của Greco 2014, bệnh nhân được chuyển 01 phôi chuẩn bội được xét nghiệm PGT bằng aCGH. Kết quả ghi nhận lợi ích khá rõ ràng của PGT đối với nhóm RIF. Cùng là bệnh nhân RIF, nhóm thực hiện PGT cho kết quả CPR tốt hơn đáng kể nhóm không thực hiện PGT (68,3 % và 21,2%) [55].
Một số liệu pháp miễn dịch khác nhau được sử dụng để tăng IR đã được nghiên cứu như Tacrolimus, Ig tiêm tĩnh mạch, tế bào đơn nhân máu ngoại vi (PBMC-Peripheral blood mononuclear cells) và yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt (G-CSF Granulocyte Colony stimulating factor).
Tacrolimus là một loại thuốc ức chế miễn dịch được sử dụng điều trị chồng thải ghép mô. Nakagawa và cs đã sử dụng Tacrolimus điều trị cho bệnh nhân RIF có tỷ lệ Th1/Th2 tăng cao. Sau điều trị, IR đạt 45,7%, trong khi những phụ nữ không điều trị IR là 0% (p < 0,0001). Những người được điều trị bằng Tacrolimus cũng đạt được LBR là 60%, trong khi những người ở nhóm chứng có LBR là 0% (p < 0,0001) [22]. Điều này cho thấy sự mất cân bằng miễn dịch này có thể đóng một vai trò quan trọng ở một số bệnh nhân mắc RIF.
Đối với những phụ nữ mắc RIF nghi do tỷ lệ Th1/TH2 cao, tế bào NK tăng cao, tỷ lệ TNFa/IL-10 bất thường và sự có mặt của tự kháng thể, điều trị Ig tĩnh mạch (Intravenous immunoglobulin) được coi là một liệu pháp miễn dịch khả thi. Trong một phân tích tổng hợp, Li và cs nghiên cứu hiệu quả của việc sử dụng Ig tĩnh mạch đã ghi nhận nhóm bệnh nhân điều trị Ig tĩnh mạch có IR, CPR và LBR đều cao hơn nhóm chứng lần lượt là: 34,3% so với 13,7%; 60,2% so với 39,3% và 49,8% so với 31,6% [56].
PBMC bao gồm tế bào lympho B, tế bào lympho T và tế bào đơn nhân. Những tế bào này sản xuất cytokine, mà cytokine đã được biết đến có cải thiện khả năng tiếp nhận của NMTC trong quá trình làm tổ. Bơm PBMC qua catheter vào TC trước khi chuyển phôi đã cải thiện đáng kể kết quả làm tổ ở nhóm bệnh nhân RIF. Yu và cs khẳng định rằng IR ở nhóm được điều trị bằng PBMC cao hơn đáng kể so với nhóm chứng (23,66% so với 11,43%) [57]. Li và cs ghi nhận chỉ những bệnh nhân có hơn bốn lần làm tổ thất bại trước đó mới được hưởng lợi khi sử dụng PBMC. Cụ thể ở những bệnh nhân sử dụng PBMC này, có sự gia tăng đáng kể về IR (22% so với 4,88%, P = 0,014), CPR (39,58% so với 14,29%, P = 0,038) và LBR (33,33 % so với 9,58%, P = 0,038) [57].
Gleicher và cs. đã thực hiện nghiên cứu đầu tiên điều trị NMTC mỏng bằng G-CSF trên bốn phụ nữ. Cả bốn phụ nữ đều có độ dày NMTC ban đầu từ 3–6,5 mm, và với phương pháp can thiệp này, tất cả đều đạt độ dày NMTC> 7 mm khi chuyển phôi. Cả bốn phụ nữ đều có sự làm tổ thành công, mặc dù cỡ mẫu còn nhỏ [58]. Gleicher đã tiến hành một nghiên cứu tiếp theo với một mẫu lớn hơn và nhận thấy kết quả tương tự ủng hộ G-CSF giúp tăng độ dày NMTC. Độ dày của NMTC được tăng lên trong vòng 48 giờ [59]. Xu và cs cũng cho thấy nhóm những người được điều trị bằng G-CSF có IR và CPR cao hơn đáng kể so với nhóm chứng lần lượt là (31,5% so với 13,9%, p <0,01) và (48,1% so với 25%, p <0,01). Tuy nhiên không có sự khác biệt về LBR giữa 2 nhóm [87].
Li và cs. đã tiến hành một phân tích gộp thì ghi nhận việc sử dụng G-CSF ở phụ nữ có NMTC mỏng hoặc bị IVF nhiều lần thất bại thì ghi nhận IR có tăng lên, tuy nhiên, điều này đạt được ý nghĩa thống kê trong đối tượng bệnh nhân Châu Á nhưng ko đạt được điều đó trong nhóm đối tượng chung. Ở những phụ nữ có NMTC mỏng hoặc thất bại IVF nhiều lần, nhóm bệnh nhân sử dụng G-CSF có CPR cao hơn khi so sánh với nhóm chứng. Điều này cho thấy G-CSF có thể là một yếu tố quan trọng trong việc cải thiện kết quả làm tổ ở một số nhóm phụ nữ cụ thể bị RIF [60].
Trong trường hợp không có kháng thể antiphospholipid, heparin gây bất lợi cho nguyên bào nuôi. Tuy nhiên khi có mặt kháng thể antiphospholipid, heparin là liệu pháp tối ưu để chống lại tình trạng viêm của nguyên bào nuôi [61]. Tuy nhiên năm 2011, một nghiên cứu được tiến hành trên nhóm bệnh nhân RIF nói chung cho thấy nhóm được điều trị heparin cho kết quả IR, CPR và LBR không có sự khác biệt khi so sánh với nhóm chứng [62].
Polyp, u xơ, dính và vách ngăn TC đều có thể ảnh hưởng đến việc làm tổ và tiêu chuẩn vàng để đánh giá là nội soi TC. Tuy nhiên, tỷ lệ bất thường giải phẫu tử cung không được phát hiện vào khoảng từ 20 đến 45%. Fatemi và cs nhận thấy polyp là bệnh lý phổ biến nhất (41%) [63]. Cenksoy và cs đã ghi nhận 44,9% bệnh nhân trong nghiên cứu của họ có kết quả soi TC bất thường. Sau khi điều trị, 51% phụ nữ này có thai. IR cũng cao hơn đáng kể ở những người được điều trị polyp (p = 0,001). Tuy nhiên, với những bệnh nhân được điều trị dính buồng TC thì tỷ lệ này không tăng [29]. Demirol và cs ghi nhận CPR ở những người được soi buồng TC và điều trị polyp, dính buồng cao hơn so với những người không được soi TC (30,4% so với 21,6%; p <0,05). Nhiều bệnh nhân có nội soi TC bất thường mặc dù trước đó có kết quả chụp TC bình thường. Soi TC có thể là một công cụ chẩn đoán hữu ích ở nhiều bệnh nhân RIF.
Cắt vòi trứng và thông tắc ống dẫn trứng trong ứ dịch vòi đã được chứng minh làm tăng khả năng làm tổ thành công. Strandell và cs ghi nhận IR, CPR và LBR ở những bệnh nhân bị tắc vòi trứng hai bên mà được điều trị cắt vòi trứng thì tăng đáng kể so với những người không làm thủ thuật này, cụ thể các giá trị tương ứng là: IR (25,6% so với 12,3%; p = 0,038) CPR (45,7% so với 22,5%; p= 0,029).
Nhiều nghiên cứu cho rằng “cào” NMTC trước làm tổ sẽ tốt cho việc làm tổ. Cơ chế được giải thích là do sự gia tăng các cytokine tại chỗ có trong quá trình làm tổ như LIF và IL-11 [64]. Barash và cs là những người đầu tiên báo cáo về chủ đề này, nhóm tác giả cho rằng các kết quả của nhóm cào NMTC cao hơn so với nhóm không cào NMTC với các tỷ lệ lần lượt là: IR (27,7% so với 14,2%; p= 0.00011). CPR (66,7% so với 30,3%; p = 0,00009) LBR (48,9% so với 22,5%; p = 0,016) [65]. Một đánh giá của Cochrane năm 2015 cũng chỉ ra “cào NMTC được thực hiện giữa ngày thứ 7 của chu kỳ trước và ngày thứ 7 của chu kỳ chuyển phôi có thể làm tăng CPR và LBR” (chất lượng bằng chứng trung bình) [66].
Tuy nhiên, một RCT lớn với 1.364 phụ nữ được công bố vào năm 2019 cho thấy không có lợi ích khi "cào" NMTC nói chung hoặc trong nhóm bệnh nhân có ≥ 2 lần chuyển phôi thất bại [67]. Từ kết quả này, đã có nhiều tranh luận trái chiều trong một bài đăng của Fert&Ster năm 2019 với tựa đề "Should we stop offering endometrial scratching prior to in vitro fertilization?" [68].
Ở những bệnh nhân được chẩn đoán viêm NMTC mạn tính qua nội soi TC và nuôi cấy, điều trị kháng sinh đã được chứng minh là hiệu quả, làm tăng IR trong các chu kỳ IVF kế tiếp.
Khi các bệnh nhiễm trùng được chữa khỏi, IR đạt 37% trong chu kỳ tiếp theo. Ngược lại, những người nhiễm trùng dai dẳng (thất bại điều trị sau 3 đợt kháng sinh) thì IR chỉ là 17%. Hơn nữa, CPR ở những người đã bị viêm NMTC mạn tính và được chữa khỏi bằng kháng sinh là 65,2%, cao hơn so với 33% ở những người bị nhiễm trùng dai dẳng (p = 0,039). LBR ở nhóm bệnh nhân chữa khỏi viêm NMTC mạn tính bằng kháng sinh là 60,8%, cao hơn so với 13,3% ở những người chưa hết viêm (p = 0,02) [69].
Hiện đang có một thử nghiệm lâm sàng tại Đại học Valencia ở Tây Ban Nha tuyển dụng những người tham gia nhằm mục đích tìm ra một phương pháp xét nghiệm chẩn đoán không xâm lấn mới cho viêm NMTC mạn tính, sử dụng DNA vi khuẩn lấy từ dịch NMTC. Các loại kháng sinh tiêm cho bệnh nhân bị viêm NMTC mạn tính sẽ được xác định dựa trên kết quả PCR và giải trình tự [70].
Một phân tích tổng hợp đã được công bố năm 2017 cho thấy trong quần thể bệnh nhân IVF nói chung, nhóm được điều trị bằng GnRH antagonist có tỷ lệ mang thai thấp hơn so với nhóm được điều trị bằng GnRH agonist (RR= 0,89, CI 95%= 0,82–0,96). Tuy nhiên, những người được điều trị bằng GnRH antagonist có tỷ lệ hội chứng quá kích buồng trứng thấp hơn [71]. Ngoài ra một vài nghiên cứu chỉ ra tác dụng có lợi khi bổ sung LH cho những phụ nữ đáp ứng kém và phụ nữ trên 35 tuổi [72].
Hiện tại, bên cạnh việc tạo đỉnh LH bằng hCG, GnRH agonist cũng được sử dụng rộng rãi và có tác dụng giảm nguy cơ quá kích buồng trứng. Một số nghiên cứu đã gợi ý rằng GnRH agonist cho kết quả noãn trưởng thành hơn nhưng lại dẫn đến suy hoàng thể. Vài nghiên cứu đã thử nghiệm tác dụng của GnRH agonist kết hợp với hCG dùng như 1 phác đồ “trigger kép” để tăng số noãn trưởng thành [73].
Huyết tương giàu tiểu cầu (PRP) là một thử nghiệm, với mục đích thúc đẩy tái tạo mô, giải quyết tình trạng kém tăng sinh và NMTC mỏng. Một số nghiên cứu quan sát nhỏ đã chứng minh tác động tích cực của việc bơm PRP trong vấn đề tăng độ dày NMTC và tỷ lệ mang thai [74], [75]. RCT lớn nhất hiện có được thực hiện bởi Nazari và cs năm 2020, trên 138 bệnh nhân RIF, có ghi nhận lợi ích từ PRP đối với nhóm bệnh nhân này [76]. Một nghiên cứu khác khảo sát việc sử dụng PRP ở những bệnh nhân có độ dày NMTC bình thường hoặc tốt thì không ghi nhận sự cải thiện có ý nghĩa thống kê về tỷ lệ mang thai [77]. Hầu hết các nghiên cứu hiện có bị giới hạn bởi số lượng nhỏ. Cần nghiên cứu sâu hơn để đưa ra các bằng chứng chắc chắn trước khi áp dụng rộng rãi.
Thụ thể hCG xuất hiện nhiều trong NMTC và có vai trò điều phối sự tiết cytokine trong giai đoạn tiếp nhận phôi của NMTC [78]. Do đó, bơm hCG ngay trước khi chuyển phôi đã được thử nghiệm để cải thiện tỷ lệ mang thai trong HTSS. Năm 2016, Strug và cs đã thử nghiệm bơm hCG vào buồng TC cho bệnh nhân hiến noãn, với mục đích là xem có hay không sự cải thiện ở mức độ phân tử của khả năng tiếp nhận NMTC và phôi. Tác giả ghi nhận sự gia tăng biểu hiện của các thụ thể estrogen và progesterone trong NMTC sau khi bơm hCG cũng như tăng các yếu tố khác có vai trò trong việc làm tổ, ví dụ như C3 và NOTCH1 [79].
Một đánh giá của Cochrane năm 2018 gồm 17 RCTs đã kết luận rằng hCG ngoại sinh có giá trị trong việc chuyển phôi giai đoạn phân cắt, nhưng chưa thấy lợi ích ở giai đoạn phôi nang [80]. Đặc biệt một số nghiên cứu đã ghi nhận sự cải thiện đáng kể trong tỷ lệ mang thai ở bệnh nhân RIF [81], [82]. Một đánh giá hệ thống năm 2019 trên Fertil & Steril kết luận rằng hCG cải thiện CPR và LBR đồng thời giảm tỷ lệ sảy thai [83]. Các nghiên cứu này bao gồm cỡ mẫu nhỏ, dữ liệu cho thấy việc sử dụng hCG cần được nghiên cứu thêm ở bệnh nhân RIF.
Vào tháng 11 năm 2017, ESHRE đã phát hành một bộ hướng dẫn mới bao gồm các khuyến nghị về điều chỉnh lối sống cho bệnh nhân sảy thai liên tiếp- RPL (RPL có những điểm tương đồng và nhiều yếu tố nguy cơ chồng chéo với RIF). Các khuyến cáo cho bệnh nhân RPL bao gồm ngừng hút thuốc, đạt được chỉ số BMI ở mức khỏe mạnh vì béo phì có liên quan đến các biến chứng sản khoa và cơ hội sinh sống thấp hơn. Căng thẳng cũng đã được chứng minh là có liên quan đến RPL.
|
|
Implantation Rate |
Clinical Pregnancy Rate |
Live Birth Outcome |
Source |
|
(treatment vs. control) |
(treatment vs. control) |
(treatment vs. control) |
||
|
Tacrolimus |
45.7% vs. 0% |
64% vs. 0% |
60% vs. 0% |
Nakagawa và cs |
|
(P < 0.0001) |
(P < 0.0001) |
(P < 0.0001) |
||
|
Ig tĩnh mạch |
34.4% vs. 13.7% |
60.2% vs. 39.3% |
49.8% vs. 31.6% |
Li và cs 2013 |
|
RR 2.708 |
RR 1.475 |
RR 1.616 |
||
|
(95% CI: 1.302–5.629, I2 = 65.0%) |
(95% CI: 1.191–1.825, I2 = 65.7%) |
(95% CI: 1.243–2.101, I2 = 58.2%) |
||
|
Tế bào đơn nhân máu ngoại vi |
22% vs. 4.88% |
39.58% vs. 14.29% |
33.33% vs.9.58% |
Li và cs 2017 [57] |
|
(P = 0.014) |
(P = 0.038) |
(P = 0.038) |
||
|
Yếu tố kích thích dòng bạch cầu hạt |
31.5% vs. 13.9% |
48.1% vs. 25% |
33.3% vs. 17.3% |
Xu và cs 2015 |
|
(P < 0.01) |
(P < 0.01) |
NS |
||
|
Kháng sinh trong viêm NMTC mạn tính |
37% vs. 17% |
65.2% vs. 33% |
60.8% vs. 13.3% |
Cicinelli và cs 2015 |
|
NS |
(P = 0.039) |
(P = 0.02) |
||
|
Cắt vòi TC |
25.6% vs. 12.3% |
45.7% vs. 22.5% |
40% vs. 17.5% |
Strandell và cs 1999 |
|
(P = 0.038) |
(P = 0.029) |
(P = 0.038) |
||
|
Cào NMTC |
27.7%, vs. 14.2% |
66.7% vs. 30.3% |
48.9% vs. 22.5% |
Barash và cs., 2003 |
|
(P = .00011) |
(P = .00009) |
(P = .016) |
||
|
Lựa chọn tinh trùng bằng IMSI |
19.2% vs. 7.8% |
43.1% vs. 10.5% |
34.7% vs. 0% |
Shalom-Paz và cs., 2015 |
|
(P = 0.042) |
(P = 0.02) |
(P = 0.003) |
|
Đây là bài báo cáo của GS.TS Nguyễn Đình Tảo tại Hội nghị khoa học Hội Hỗ trợ sinh sản Tp.HN lần thứ nhất vào ngày 06/12/2020. Chúng tôi xin được đăng tải đầy đủ nội dung của bài báo cáo. Vì bài báo cáo rất dài nên được đăng tải thành nhiều bài. |
Bài trước:
[content_more] => [meta_title] => Góc nhìn đa chiều về thất bại làm tổ liên tiếp: nguyên nhân và hướng điều trị - GS Nguyễn Đình Tảo ( [meta_description] => Đây là bài báo cáo của GS.TS Nguyễn Đình Tảo tại Hội nghị khoa học Hội Hỗ trợ sinh sản Tp.HN lần thứ nhất vào ngày 06/12/2020. Chúng tôi xin được đăng tải đầy đủ nội dung của bài báo cáo. Vì bài báo cáo rất dài nên được đăng tải thành nhiều bài. [meta_keyword] => thất bại làm tổ liên tiếp,GS Tảo,Sảy thai liên tiếp,Thất bại IVF [thumbnail_alt] => [post_id] => 635 [category_id] => 15 ) [1] => stdClass Object ( [id] => 632 [id_crawler] => [category_product] => NULL [thumbnail] => tin-chuyen-nganh/2021/1.2021/sang-loc-truoc-sinh-o-nha-trang1.jpg [album] => [url_video] => [is_status] => 1 [is_featured] => 0 [is_form] => 0 [displayed_time] => 2021-01-03 [program] => 0 [number] => 1 [viewed] => 0 [type] => [type_career] => [level] => [address] => [address_career] => [expiration_time] => 0000-00-00 [created_time] => 2021-01-15 16:25:04 [updated_time] => 2021-01-15 16:25:04 [files] => [salary] => [time] => [created_by] => [is_table_content] => [language_code] => vi [slug] => xet-nghiem-sang-loc-truoc-sinh-nha-trang-o-dau-tot-nhat [title] => Xét nghiệm sàng lọc trước sinh Nha Trang ở đâu tốt nhất? [description] => Khi bắt đầu mang thai, chắc hẳn các mẹ bầu cũng bắt đầu quan tâm và có chút lo lắng về xét nghiệm sàng lọc trước sinh. Vậy, sàng lọc trước sinh Nha trang ở đâu tốt và uy tín? [content] =>Mẹ muốn tìm địa chỉ khám sàng lọc trước sinh Nha Trang uy tín? Vậy, hãy tìm hiểu sâu về sàng lọc trước sinh nhé! Sàng lọc trước sinh là việc sử dụng những biện pháp thăm dò đặc hiệu trong thời gian mang thai để chẩn đoán xác định các trường hợp có nguy cơ dị tật bẩm sinh cao ở bào thai. Từ đó đưa ra những lời khuyên cho gia đình chọn hướng xử trí kịp thời và thích hợp.

Thông thường sẽ gồm 2 giai đoạn là sàng lọc và chẩn đoán:
Sàng lọc trước sinh không xâm lấn NIPT - Illumina (GenEva) được thực hiện từ tuần thai thứ 10 thông qua mẫu máu của mẹ và là phương pháp an toàn, chính xác nhất hiện nay
Phương pháp sàng lọc trước sinh không xâm lấn (NIPT) thực hiện phân tích ADN tự do của thai nhi có trong máu mẹ từ đó sàng lọc những hội chứng dị tật bẩm sinh mà thai nhi có thể mắc phải.
Chỉ với 10ml máu của mẹ có thể phát hiện được các hội chứng Down, Edwards, Patau và rất nhiều hội chứng khác cho thai nhi với độ chính xác cao vượt trội hơn các xét nghiệm thông thường.

Sản phụ nên đi khám sàng lọc khi tuổi thai được từ tuần thứ 10 là tốt nhất. Sàng lọc trong giai đoạn này bao gồm siêu âm hình thái thai nhi, đo độ mờ da gáy vào thời điểm từ 11 - 13 tuần 6 ngày và thực hiện một số xét nghiệm cần thiết để phát hiện nguy cơ mắc hội chứng Down và một số bệnh lý khác.
Trong giai đoạn này, khi đi khám sàng lọc, bạn được thực hiện một số xét nghiệm cần thiết vào lúc tuổi thai từ 14 - 21 tuần; siêu âm hình thái và cấu trúc các cơ quan của thai nhi vào lúc tuổi thai từ 20 - 24 tuần nhằm phát hiện các bất thường của hệ thần kinh, hệ tim mạch, ở lồng ngực, dị tật của dạ dày - ruột, sinh dục - tiết niệu, xương...
Đây là thời gian thường không có chỉ định sàng lọc, chẩn đoán trước sinh. Tuy nhiên, các bà mẹ mang thai nên chủ động siêu âm trong thai kỳ này để đánh giá tình trạng sự phát triển của thai nhi và tiên lượng cho cuộc đẻ.

Hiện nay, tại các bệnh viện công và nhiều bệnh viện đa khoa tư nhân, các phòng khám sản, tiền sản có thể thực hiện sàng lọc trước sinh.
Tuy nhiên, trước khi thực hiện sàng lọc trước sinh, các mẹ bầu nên lựa chọn đơn vị uy tín, có kinh nghiệm lâu năm cũng như có đầy đủ hệ thống máy móc kỹ thuật hiện đại, đạt chuẩn quốc tế để cho được những kết quả sàng lọc chính xác nhất. Vậy nên xét nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn ở đâu tại Nha Trang uy tín mà chính xác? GENTIS chính là đơn vị uy tín, chất lượng mà mẹ bầu nên lựa chọn:
Xét nghiệm sàng lọc trước sinh không xâm lấn được thực hiện tại phòng xét nghiệm đạt chuẩn quốc tế của GENTIS tại Việt Nam. Chất lượng được giám sát chặt chẽ, đảm bảo tương đương phòng xét nghiệm tại Mỹ và hạn chế được nhiều rủi ro sai sót khi gửi mẫu ra nước ngoài, có kết quả nhanh chóng…
Đại lý của GENTIS tại Nha Trang:
Trước khi tìm địa chỉ xét nghiệm ADN Buôn Ma Thuột chúng ta cần phải thực sự hiểu được xét nghiệm ADN là gì và tầm quan trọng của xét nghiệm này trong cuộc sống.
Xét nghiệm ADN hay còn gọi tên khác là phân tích ADN, giám định ADN là việc phân tích ADN của các cá nhân (thông qua các mẫu xét nghiệm được cung cấp như mẫu máu, móng tay, móng chân, niêm mạc miệng,...) rồi tiến đối chiếu để xác nhận các mối quan hệ huyết thống giữa các cá nhân còn đang nghi ngờ. Tại các cơ sở uy tín, xét nghiệm ADN có độ chính xác cao và lên tới 100% đối với các trường hợp không có quan hệ huyết thống, 99,99999998% đối với trường hợp có quan hệ huyết thống.

Xét nghiệm ADN có thể được dùng để nhận biết người thân thông thường (dịch vụ xét nghiệm ADN tự nguyện) nhưng có thể sử dụng kết quả trong các công việc hành chính pháp luật liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của 1 hay nhiều người như:
Với những ý nghĩa đặc biệt quan trọng như vậy, bạn cần phải đảm bảo rằng mình lựa chọn được một địa chỉ uy tín, chất lượng với kết quả được công nhận rộng rãi bởi các đại sứ quán, cơ quan luật pháp, cơ quan hành chính nhà nước.
Bước 1: Tới địa chỉ thu mẫu của GENTIS tại Buôn Ma Thuột để được tư vấn trực tiếp về xét nghiệm
Địa chỉ: 383 Lê Duẩn, Buôn Ma Thuột, Đăk Lăk
Điện thoại: 0968119679
Thời gian làm việc: 08h00 -17h00 tất cả các ngày trong tuần
Bước 2: Ký đơn đăng ký làm xét nghiệm ADN theo mẫu
Bước 3: Nhân viên GENTIS hỗ trợ thu mẫu và tư vấn rất nhanh chóng
Bước 4: Kết quả sẽ được gửi về tận nơi tùy theo thời gian trong gói đăng ký của bạn.
Bước 1: Lấy phong bì, viết tên phân biệt từng người
Bước 2: Thu thập mẫu xét nghiệm (mẫu máu, mẫu niêm mạc miệng, mẫu móng tay, tóc có chân...) và cho vào từng phong bì đã ghi tên và niêm phong, tránh nhầm lẫn
Bước 3: Cho tất cả các phong bì đựng mẫu vào 1 phong bì to, niêm phong và gửi về phòng Lab của GENTIS khu vực miền Nam:
Địa chỉ: 8/24 Nguyễn Đình Khơi, Phường 4, Quận Tân Bình, TP.HCM
Hotline: 0888 40 2010
Bước 4: Chờ kết quả gửi về
Cách 3: Gọi ngay đến tổng đài miễn phí 1800 2010 để được hỗ trợ thu mẫu tận nơi

Hi vọng với những thông tin trên đây việc xét nghiệm ADN Buôn Ma Thuột sẽ trở nên đơn giản, nhanh chóng, dễ dàng hơn bao giờ hết.
[content_more] => [meta_title] => Xét nghiệm ADN Buôn Ma Thuột có thực sự khó tìm địa chỉ uy tín? [meta_description] => Nếu đang tìm kiếm địa chỉ uy tín xét nghiệm ADN Buôn Ma Thuột, bạn có thể tham khảo bài viết dưới đây để có địa chỉ chính xác. [meta_keyword] => Xét nghiệm ADN Buôn Ma Thuột ,xét nghiệm adn,adn buôn ma thuột [thumbnail_alt] => [post_id] => 630 [category_id] => 15 ) [3] => stdClass Object ( [id] => 627 [id_crawler] => [category_product] => NULL [thumbnail] => tin-tuc/2021/01/hasam2020-mr-vinh.jpg [album] => [url_video] => [is_status] => 1 [is_featured] => 0 [is_form] => 0 [displayed_time] => 2021-01-12 [program] => 0 [number] => 1 [viewed] => 0 [type] => [type_career] => [level] => [address] => [address_career] => [expiration_time] => 0000-00-00 [created_time] => 2021-01-12 14:03:31 [updated_time] => 2024-05-15 14:52:39 [files] => [salary] => [time] => [created_by] => [is_table_content] => [language_code] => vi [slug] => bao-cao-danh-gia-phuong-phap-scsa-trong-phan-tich-phan-manh-adn-tinh-trung-tai-hasam-2020 [title] => Báo cáo: Đánh giá phương pháp SCSA trong phân tích phân mảnh ADN tinh trùng tại HASAM 2020 [description] => Ngày 6/12/2020, tại khách sạn Daewoo hotel, 360 Kim Mã, Quận Ba Đình, Hà Nội đã diễn ra Hội nghị khoa học lần thứ nhất của Hội Hỗ trợ sinh sản thành phố Hà Nội. GENTIS vinh dự đồng hành cùng sự kiện, đặc biệt ông Nguyễn Quang vinh – Giám đốc trung tâm xét nghiệm GENTIS đã có bài báo cáo khoa học tại Hội nghị. [content] =>Hội Hỗ trợ sinh sản Thành phố Hà Nội là tổ chức kết nối nhiều chuyên gia, bác sĩ, chuyên viên từ các trung tâm Hỗ trợ sinh sản của Hà Nội và cả các trung tâm tại phía Bắc. Hội nghị khoa học lần thứ nhất của Hội có 20 bài báo cáo của các chuyên gia hàng đầu như: GS.TS Nguyễn Viết Tiến – Nguyên thứ trưởng Bộ Y tế, GS. Ivan Reich – Chuyên gia HTSS Cộng hòa Séc, GS.TS Nguyễn Đình Tảo...
Là đơn vị tiên phong trong lĩnh vực phân tích di truyền tại Việt Nam, luôn chú trọng các Hội nghị khoa học lớn, GENTIS vinh dự được đồng hành cùng sự kiện lần này. Đặc biệt ThS. Nguyễn Quang Vinh – Giám đốc Trung tâm xét nghiệm GENTIS sẽ có bài báo cáo khoa học tại Hội nghị:
Chủ đề báo cáo: Đánh giá phương pháp SCSA trong phân tích phân mảnh ADN tinh trùng.
Mời quý vị cùng theo dõi clip của bài báo cáo:
"Phân mảnh ADN tinh trùng là một trong những bất thường di truyền của tinh trùng, chiếm khoảng 20% các trường hợp vô sinh nam, tuy nhiên không thể phát hiện được thông qua phân tích tinh dịch đồ. Vì thế, việc xác định mức độ phân mảnh ADN tinh trùng là rất cần thiết để xác định nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới."
Panner Selvam MK & Agarwal A (2018), “A systematic review on sperm DNA fragmentation in male factor infertility: Laboratory assessment”
Xét nghiệm ADN tinh trùng hỗ trợ bác sĩ xác định được nguyên nhân gây vô sinh ở nam giới trong trường hợp kết quả tinh dịch đồ bình thường. Giải thích được hiện tượng sảy thai liên tiếp, vô sinh không rõ nguyên nhân và làm IVF thất bại ở các cặp vợ chồng. Việc đánh giá toàn diện về chất lượng tinh trùng thông qua xét nghiệm phân mảnh ADN tinh trùng là cực kì cần thiết để tiên lượng khả năng sinh sản và có hướng can thiệp phù hợp nhất.
Lê Minh Tâm và cộng sự (2019), “Phân mảnh ADN tinh trùng và sinh sản nam”, Hội nghị sản phụ khoa toàn quốc mở rộng 2019

Xét nghiệm Phân mảnh ADN tinh trùng tại GENTIS sử dụng phương pháp: SCSA (Sperm Chromatin Structure Assay) – là phương pháp định lượng trực tiếp sự phân mảnh ADN tinh trùng thông qua hệ thống đếm Flow cytometry dựa vào sự đổi màu của thuốc nhuộm. Chỉ sau 2-3 ngày có kết quả.
[content_more] => [meta_title] => Báo cáo: Đánh giá phương pháp SCSA trong phân tích phân mảnh ADN tinh trùng tại HASAM 2020 [meta_description] => Báo cáo Đánh giá phương pháp SCSA trong phân tích phân mảnh ADN tinh trùng tại Hội nghị khoa học Hội hỗ trợ sinh sản Tp.HN 2020 của ông Nguyễn Quang Vinh - Giám đốc Trung tâm xét nghiệm GENTIS. [meta_keyword] => Phân mảnh tinh trùng,vô sinh nam,SCSA [thumbnail_alt] => [post_id] => 627 [category_id] => 15 ) [4] => stdClass Object ( [id] => 622 [id_crawler] => [category_product] => NULL [thumbnail] => dich-vu/hpv/ovcancerribbon_0.jpg [album] => [url_video] => [is_status] => 1 [is_featured] => 0 [is_form] => 0 [displayed_time] => 2020-12-28 [program] => 0 [number] => 1 [viewed] => 0 [type] => [type_career] => [level] => [address] => [address_career] => [expiration_time] => 0000-00-00 [created_time] => 2020-12-28 16:37:06 [updated_time] => 2020-12-29 09:29:02 [files] => [salary] => [time] => [created_by] => [is_table_content] => [language_code] => vi [slug] => sang-loc-ton-thuong-tien-ung-thu-va-ung-thu-co-tu-cung-bang-xet-nghiem-te-bao-co-tu-cung [title] => Sàng lọc tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm tế bào cổ tử cung [description] => Xét nghiệm tế bào học trong việc phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung có độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao nên có thể áp dụng trong sàng lọc trên diện rộng cộng đồng, cũng như ở các phòng khám chuyên khoa. [content] =>| Nghiên cứu của nhóm tác giả: Nguyễn Vũ Quốc Huy, Lê Minh Tâm, Trương Quang Vinh Đặng Công Thuận, Cao Ngọc Thành - Trường Đại học Y Dược Huế |
Đề tài này nhằm xác định tỷ lệ bất thường và giá trị chẩn đoán của xét nghiệm tế bào cổ tử cung trong sàng lọc tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung.
Mô tả cắt ngang trên 1.139 phụ nữ trong độ tuổi sinh sản ở 11 xã/phường thuộc 3 huyện thị đại diện cho 3 vùng địa lý gồm huyện Phú Vang, huyện Nam Đông và thành phố Huế trong thời gian từ tháng 03 năm 2011 đến tháng 08 năm 2012. Những trường hợp có kết quả tế bào học cổ tử cung bất thường sẽ được mời tái khám tại Bệnh viện để soi cổ tử cung và sinh thiết nếu có chỉ định. Các thông số nghiên cứu liên quan đến tỷ lệ bất thường tế bào và giá trị chẩn đoán của tế bào học.
Tuổi trung bình của phụ nữ được khám sàng lọc là 37,3±7,4. Nguy cơ tế bào học dương tính tăng dần theo tuổi đời và số lần mang thai. Kết quả VIA ghi nhận 88 trường hợp (chiếm 7,7%) tổn thương cổ tử cung bất thường và nghi ngờ ung thư.
Tỷ lệ tỷ lệ phát hiện tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung qua xét nghiệm tế bào cổ tử cung là 5,44%, trong đó chẩn đoán ASCUS/H: 3,07%, AGUS: 0,96%, LSIL: 1,14% và HSIL: 0,26%. Giá trị chẩn đoán của xét nghiệm tế bào cổ tử cung có độ nhạy 72,7%; độ đặc hiệu 71,4%; độ chính xác 72,2%; giá trị tiên đoán dương 80,0% và giá trị tiên đoán âm 62,5%.
Xét nghiệm tế bào học trong việc phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung có độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao nên có thể áp dụng trong sàng lọc trên diện rộng cộng đồng, cũng như ở các phòng khám chuyên khoa. Tuy nhiên tỷ lệ âm tính giả còn cao nên cần phối hợp nhiều biện pháp khác nhau và có thể chỉ định lặp lại xét nghiệm tế bào học để tăng hiệu quả sàng lọc nếu các phương pháp sàng lọc khác không có sẵn. (1)

1, Lấy mẫu bệnh phẩm.
2, Ngắt đầu chổi cho vào ống bảo quản - Gần 100% tế bào được tập hợp vào lọ dung dịch E-Prep.
3, Tế bào trong dung dịch được chuyển đến phòng lab.
4, Làm tiêu bản bằng kỹ thuật trải mỏng tế bào tự động trên lam kính bằng hệ thống E-prep 1000 Processor. >> Giải quyết hơn 2/3 lỗi âm tính giả gây ra bởi khâu lấy mẫu và chuẩn bị mẫu. Với kết quả chính xác từ 90%.
5, Bác sĩ giải phẫu bệnh đọc kết quả và ký kết luận trên phiếu trả kết quả.
Chất bảo quản mẫu (Preservative) E-prep Solution:
Máy xử lý mẫu tự động E-prep 1000 Processor:

Màng lọc kép E-prep filter MF20:
Đạt chứng nhận chất lượng: ISO, CE-IVD, KFDA
(1) Tạp chí Phụ sản vào Tháng 3/2013
Bài viết liên quan:
PGS Vũ Bá Quyết đánh giá về xét nghiệm HPV-EPREP
Ưu đãi cho combo xét nghiệm E-PREP và HPV-ADN
[content_more] => [meta_title] => Sàng lọc tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung bằng xét nghiệm tế bào cổ tử cung [meta_description] => Xét nghiệm tế bào học trong việc phát hiện các tổn thương tiền ung thư và ung thư cổ tử cung có độ nhạy và độ đặc hiệu khá cao nên có thể áp dụng trong sàng lọc trên diện rộng cộng đồng, cũng như ở các phòng khám chuyên khoa. [meta_keyword] => EPREP,Xét nghiệm tế bào học,hpv,UTCTC [thumbnail_alt] => [post_id] => 622 [category_id] => 15 ) [5] => stdClass Object ( [id] => 616 [id_crawler] => [category_product] => NULL [thumbnail] => tin-tuc/12.2020/hasam2020-phien2-3-hta_(9).jpg [album] => [url_video] => [is_status] => 1 [is_featured] => 0 [is_form] => 0 [displayed_time] => 2020-12-21 [program] => 0 [number] => 1 [viewed] => 0 [type] => [type_career] => [level] => [address] => [address_career] => [expiration_time] => 0000-00-00 [created_time] => 2020-12-21 14:06:23 [updated_time] => 2024-05-15 14:52:42 [files] => [salary] => [time] => [created_by] => [is_table_content] => [language_code] => vi [slug] => nhung-bao-cao-ve-phan-tich-di-truyen-moi-truong-nuoi-cay-phoi-trong-hoi-nghi-khoa-hoc-hasam-2020 [title] => Những báo cáo về Phân tích di truyền môi trường nuôi cấy phôi trong Hội nghị khoa học HASAM 2020 [description] => Ngày 6/12/2020, tại Hội nghị khoa học Hội Hỗ trợ sinh sản Tp.HN (HASAM 2020), có 03 bài báo cáo về chủ đề phân tích di truyền môi trường nuôi cấy phôi với những kết quả đáng chú ý. [content] =>Nhóm tác giả: Trịnh Thế Sơn, Nguyễn Thanh Tùng, Đặng Tiến Trường, Hồ Giang Nam, Hoàng Văn Ái, Nguyễn Thị Nga.
.jpg)
Một nghiên cứu được thực hiện với 48 phôi được thu thập dịch môi trường.



- Việc thu thập mẫu SCM để làm xét nghiệm niPGT-A là triển vọng. Trong đó việc thu mẫu dịch nuôi từ N3 đến N5/6 có khả thi
- Có nhiều phương pháp thu mẫu dịch nuôi cấy… Cần chuẩn hóa phương pháp thu mẫu để có nồng độ cfDNA đủ nồng độ và đủ sạch phục vụ xét nghiệm di truyền.
Nhóm tác giả: Nguyễn Thị Hoa1, Nguyễn Thị Thuỳ Linh1, Nguyễn Thị Liên Hương1, Lê Hoàng1, Đặng Tiến Trường2 (1Bệnh viện Đa khoa Tâm Anh, 2Học viện Quân y)
.jpg)
Tại Bệnh viện Đa Khoa Tâm Anh và Học viện Quân y đã tiến hành nghiên cứu giai đoạn thử nghiệm, bước đầu xác định sự phù hợp của kết quả phân tích lệch bội nhiễm sắc thể trước chuyển phôi thông cf-DNA của dịch nuôi cấy và toàn bộ phôi. 10 mẫu phôi được xác định lệch bội nhiễm sắc thể bằng kỹ thuật tiêu chuẩn thông qua sinh thiết TE. Các phôi được rã đông và nuôi cấy đơn giọt trong 24 giờ; mẫu phôi toàn bộ và mẫu dịch nuôi cấy được thu thập vào 2 ống riêng biệt. Các mẫu được khuếch đại và xác định lệch bội nhiễm sắc thể bằng bộ kit Reproseq (Thermo, USA), sau khi được điều chỉnh phù hợp trên hệ thống giải trình tự thế hệ mới Ion Studio S5 Prime (Thermo, USA).
Kết quả 8/10 mẫu môi trường nuôi phôi có đủ lượng ADN phục vụ phân tích tiếp theo; xác định lệch bội nhiễm sắc thể của 6/8 mẫu dịch nuôi phôi (SCM) và 8/10 mẫu sinh thiết tế bào lá nuôi (TE) phù hợp với kết quả xác định lệch bội của mẫu toàn bộ phôi. Trong khi đó, kết quả xác định kiểu gen của cặp nhiễm sắc thể thứ 23 của 8/8 mẫu dịch và 9/10 mẫu sinh thiết TE phù hợp với kết quả của mẫu toàn bộ phôi.
Nhóm tác giả: Đào Mai Anh1, Vũ Đình Chất2, Nguyễn Văn Huynh1, Hoàng Thị Nhung1, Phạm Đình Minh1, Nguyễn Quang Vinh1, Trần Quốc Quân1(1Công ty Cổ phần Dịch vụ Phân tích Di truyền (GENTIS), 2 Bệnh viện Đa khoa Hồng Ngọc)
78 mẫu phôi sinh thiết và 78 mẫu môi trường nuôi cấy D3-D5 tương ứng được sử dụng trong nghiên cứu. Trong đó, mẫu sinh thiết được thực hiện theo quy trình xét nghiệm PGT-A sử dụng bộ kit Veriseq iIllumina, Hoa Kỳ), mẫu môi trường nuôi cấy được thực hiện theo quy trình đã được phát triển tại GENTIS.
72/78 mẫu môi trường được khuếch đại thành công, đạt tiêu chuẩn cho các bước phân tích tiếp theo (chiếm 92%). Kết quả phân tích bất thường số lượng NST cho thấy độ tương đồng giữa mẫu môi trường và mẫu sinh thiết tương ứng là 82% (59/72). Độ tương đồng trong việc xác định sự có mặt của NST Y là 90% (65/72).

Các kết quả không tương đồng có thể do phôi mang bất thường dạng khảm hoặc sự có mặt của DNA có nguồn gốc từ mẹ trong môi trường nuôi cấy, chủ yếu từ các tế bào granulosa và tế bào cumulus không được loại bỏ hoàn toàn trong quá trình nuôi cấy phôi. Chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu tối ưu và kiểm soát quy trình nuôi cấy hiệu quả hơn. Đồng thời tiếp tục phối hợp với các trung tâm IVF tại Việt Nam nhằm tăng cường chất lượng và khẳng định giá trị của xét nghiệm này.
- Công nghệ và quy trình phân tích di truyền môi trường nuôi cấy phôi đã được phát triển thành công và kiểm tra đánh giá chất lượng tại GENTIS.
- Quy trình phân tích đã được ứng dụng thành công cho sàng lọc bất thường số lượng 23 cặp NST và phát hiện sự có mặt của NST Y.
- Tối ưu và kiểm soát quy trình nuôi cấy phôi, loại bỏ sự có mặt của tế bào có nguồn gốc từ mẹ trong quá trình nuôi cấy, và sử phần mềm chuyên sâu là các yếu tố chính giúp tăng độ chính xác của xét nghiệm.
Mai Chi (tổng hợp)
[content_more] => [meta_title] => Những báo cáo về Phân tích di truyền môi trường nuôi cấy phôi trong Hội nghị khoa học HASAM 2020 [meta_description] => Ngày 6/12/2020, tại Hội nghị khoa học Hội Hỗ trợ sinh sản Tp.HN (HASAM 2020), có 03 bài báo cáo về chủ đề phân tích di truyền môi trường nuôi cấy phôi với những kết quả đáng chú ý. [meta_keyword] => niPGT,Phân tích di truyền môi trường nuôi cấy phôi,GENTIS,HASAM2020 [thumbnail_alt] => [post_id] => 616 [category_id] => 15 ) [6] => stdClass Object ( [id] => 615 [id_crawler] => [category_product] => NULL [thumbnail] => klos/pgs-vu-ba-quyet.jpg [album] => [url_video] => [is_status] => 1 [is_featured] => 0 [is_form] => 0 [displayed_time] => 2020-12-18 [program] => 0 [number] => 1 [viewed] => 0 [type] => [type_career] => [level] => [address] => [address_career] => [expiration_time] => 0000-00-00 [created_time] => 2020-12-18 15:29:31 [updated_time] => 2024-05-15 14:52:44 [files] => [salary] => [time] => [created_by] => [is_table_content] => [language_code] => vi [slug] => pgsts-vu-ba-quyet-danh-gia-ve-eprep-va-hpvadn-trong-sang-loc-ung-thu-co-tu-cung [title] => PGS.TS Vũ Bá Quyết đánh giá về E-Prep và HPV-ADN trong sàng lọc ung thư cổ tử cung [description] => Chúng ta nên kết hợp E-Prep và HPV-DNA, chỉ định cho phụ nữ trên 30 tuổi. Nếu cả 2 xét nghiệm này âm tính, bệnh nhân hầu như không có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung và chỉ cần xét nghiệm lại sau 3-5 năm. [content] =>Ung thư cổ tử cung là nguyên hàng đầu gây tử vong ở phụ nữ Việt Nam. Có nhiều biện pháp xét nghiệm sàng lọc, như bằng tế bào từ những năm 50. Nhưng xét nghiệm tế bào bằng Papsmear thì độ nhạy độ đặc hiệu không cao.
Đến những năm 80 xét nghiệm tế bào đã tăng độ nhạy độ đặc hiệu lên, nhưng có những nghiên cứu có thấy độ nhạy độ đặc hiệu chỉ 40-70%. Vì sao. Vì kết quả phụ thuộc nhiều vào: người lấy mẫu, cách nhuộm, cách đọc vì việc lẫn tạp chất, chất nhày, máu.
Gần đây GENTIS đã triển khai được phương pháp tế bào mới là Eprep – là công nghệ mới việc lọc 2 lần giúp loại bỏ các tạp chất, chất nhày, tế bào hồng cầu, bạch cầu… Bác sĩ dễ dàng khi thu nhận tế bào và đọc kết quả không bị nhầm lẫn. Độ nhạy độ chính xác tăng lên rất nhiều. E-Prep chúng ta có thể chỉ định xét nghiệm cho bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, đã quan hệ tình dục.
Việc gửi mẫu ở GENTIS có thể tin tưởng được với đội ngũ kỹ thuật viên, bác sĩ tốt và công nghệ mới giúp tăng độ nhạy độ đặc hiệu lên.
Đặc biệt chúng ta có một xét nghiệm nữa là xét nghiệm HPV-DNA. Tháng 4/2014, Mỹ đã chính thức đưa HPV-DNA vào sàng lọc đầu tay cho phụ nữ. Bộ Y tế Việt Nam tháng 6/2016 cũng đưa xét nghiệm HPV-DNA vào sàng lọc đầu tay.
HPV là virus gây u nhú ở người, có khoảng 200 types, trong đó có 14 types nguy cơ cao. Nếu xét nghiệm HPV-ADN thấy những types nguy cơ cao dương tính thì các nhà lâm sàng cần tiến hành soi cổ tử cung và sinh thiết để tìm xem bệnh nhân này có phải mắc ung thư cổ tử cung hay không. Xét nghiệm HPV-DNA được chỉ định cho phụ nữ 25 tuổi (đã từng quan hệ tình dục), độ nhạy độ đặc hiệu từ 90-95%.
Đặc biệt chúng ta nên kết hợp E-Prep và HPV-DNA, chỉ định cho phụ nữ trên 30 tuổi. Nếu cả 2 xét nghiệm này âm tính, bệnh nhân hầu như không có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung và chỉ cần xét nghiệm lại sau 3-5 năm. Tuy nhiên, chị em phụ nữ nên đi khám phụ khoa mỗi năm ít nhất 1 lần.
Theo PGS.TS Vũ Bá Quyết
[content_more] => [meta_title] => PGS.TS Vũ Bá Quyết đánh giá về E-Prep và HPV-ADN trong sàng lọc ung thư cổ tử cung [meta_description] => Chúng ta nên kết hợp E-Prep và HPV-DNA, chỉ định cho phụ nữ trên 30 tuổi. Nếu cả 2 xét nghiệm này âm tính, bệnh nhân hầu như không có nguy cơ bị ung thư cổ tử cung và chỉ cần xét nghiệm lại sau 3-5 năm. [meta_keyword] => UTCTC,HPV,EPREP,PGS Vũ Bá Quyết,GENTIS,tầm soát ung thư cổ tử cung [thumbnail_alt] => [post_id] => 615 [category_id] => 15 ) [7] => stdClass Object ( [id] => 614 [id_crawler] => [category_product] => NULL [thumbnail] => tin-tuc/12.2020/hasam2020-phien2-3-hta_(6).jpg [album] => [url_video] => [is_status] => 1 [is_featured] => 0 [is_form] => 0 [displayed_time] => 2020-12-18 [program] => 0 [number] => 1 [viewed] => 0 [type] => [type_career] => [level] => [address] => [address_career] => [expiration_time] => 0000-00-00 [created_time] => 2020-12-18 14:45:11 [updated_time] => 2024-05-15 14:52:45 [files] => [salary] => [time] => [created_by] => [is_table_content] => [language_code] => vi [slug] => xac-dinh-cua-so-lam-to-danh-gia-cua-chuyen-gia-IVF-trong-cac-hoi-nghi-khoa-hoc-nam-2020 [title] => Xác định cửa sổ làm tổ - Đánh giá của chuyên gia IVF trong các hội nghị khoa học năm 2020 [description] => Tại Hội nghị khoa học lần thứ nhất của Hội Hỗ trợ sinh sản Hà Nội và IVF Expert 16, chủ đề cửa sổ làm tổ giúp xác định thời gian tối ưu cho chuyển phôi được nhiều chuyên gia quan tâm. GS.TS Nguyễn Đình Tảo, PG.TS Hồ Sỹ Hùng, PGS.TS Nguyễn Xuân Hợi trong các bài báo cáo của mình đều có nhắc đến xét nghiệm Eratest (Genratest). [content] =>.jpg)
Trong bài báo cáo Thất bại làm tổ liên tiếp tại Hội nghị HASAM 2020, PGS. TS Hồ Sỹ Hùng - Phó giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia, bệnh viện Phụ sản Trung ương, cho biết có nhiều nguyên nhân thất bại làm tổ liên tiếp (RIF) trong đó có nguyên nhân do lệch cửa sổ làm tổ.
“Không đồng bộ hóa giữa niêm mạc tử cung và tuổi phôi
Lệch cửa sổ làm tổ là nguyên nhân gây ra RIF, nhiều nghiên cứu đã chứng minh thất bại làm tổ có liên quan đến lệch cửa sổ làm tổ hay không đồng bộ hóa giữa niêm mạc tử cung và tuổi phôi (7), (8). Có nhiều phương pháp xác định cửa sổ làm tổ (Window of Implantation WOI) nhưng gầy đây ERA test (endometrial receptivity analysis) được nghiên cứu nhiều. Ruiz-Alonso so sánh giữa hai nhóm bệnh nhân RIF và bình thường cho thấy ở nhóm bệnh nhân RIF tỷ lệ lệch cửa sổ làm tổ là 25,9% so với nhóm bình thường là 12% (8).
Không đồng bộ hóa giữa niêm mạc tử cung và tuổi phôi cũng thường gặp ở các bệnh nhân bị lạc nội mạc trong cơ. Adenomyosis ngoài gây phản ứng viêm, tổn thương cơ tử cung và niêm mạc tử cung. Lệch cửa sổ làm tổ ở các bệnh nhân này cũng là một trong số các nguyên nhân gây ra RIF. Xét nghiệm ERA test cũng cho thấy ở các bệnh nhân này cửa sổ làm tổ cũng bị lệch tới 47% các trường hợp và tỷ lệ bệnh nhân RIF là 66% trong nhóm bệnh nhân adenomyosis (9).
Xác định chính xác cửa sổ làm tổ ở các bệnh nhân này cải thiện đáng kể tỷ lệ có thai, thậm chí giảm tỷ lệ sảy thai ở các bệnh nhân sảy thai liên tiếp.”
.jpg)
Trong bài báo cáo Góc nhìn đa chiều về thất bại làm tổ liên tiếp: nguyên nhân và hướng điều trị, tại HASAM 2020, GS.TS Nguyễn Đình Tảo – Chủ tịch Hội Hỗ trợ sinh sản Tp.HN cho biết 1 trong những hướng điều trị thất bại làm tổ liên tiếp là đánh giá sự tiếp nhận của niêm mạc tử cung.
“Cửa sổ làm tổ (WOI) thường chỉ kéo dài trong 4 hoặc 5 ngày và bắt đầu vào khoảng 6 ngày sau khi rụng trứng [49]. Một trong những cơ chế có liên quan đến RIF là sự thay đổi khả năng tiếp nhận của niêm mạc tử cung, mà cụ thể là liên quan đến sự đến sớm hoặc muộn của WOI.
Ruiz-Alonso và cs đã sử dụng xét nghiệm đánh giá độ tiếp nhận của niêm mạc tử cung (endometrial receptivity array-ERA) để xác định WOI dựa trên 238 gen ở phụ nữ mắc RIF. Ở 25% bệnh nhân, thời gian WOI bị thay đổi, và dựa trên dữ liệu thu thập được từ ERA, người ta thay đổi thời gian chuyển phôi, điều đó làm tỷ lệ làm tổ tăng lên bằng tỷ lệ của những người WOI bình thường [50].
Một nghiên cứu tương tự đã được thực hiện bởi Hashimoto. Sử dụng xét nghiệm ERA, họ xác định xem niêm mạc tử cung có tiếp nhận hay không tiếp nhận trước khi thực hiện chuyển phôi. Phân theo kết quả ERA test, tỷ lệ có thai ở 2 nhóm tiếp nhận và không tiếp nhận là tương đương nhau (32,8% so với 31,6%) [51].
Từ 2 kết quả trên gợi ý rằng: ở một số bệnh nhân RIF có thể không tìm thấy bệnh lý thực thể mà do sự thay đổi WOI.”

Tại IVF Expert 16, PGS.TS Nguyễn Xuân Hợi - Giám đốc Trung tâm tế bào gốc máu cuống rốn, Bệnh viện Phụ Sản Trung ương, đã có bài báo cáo với chủ đề: Tối ưu kết quả chuyển phôi đông lạnh. Trong bài báo cáo PGS đã chia sẻ thông tin mới về xét nghiệm ERA giúp xác định cửa sổ chuyển phôi.
PGS Nguyễn Xuân Hợi cho biết: Endotrial Receptivity array (ERA) Test khảo sát 238 gen liên quan tới làm tổ. PGS chia sẻ nhiều khi phôi đẹp, niêm mạc đẹp, bệnh nhân trẻ tuổi nhưng chuyển phôi nhiều lần vẫn thất bại, các bác sĩ đã nghĩ đến thời điểm chuyển phôi.
Mục tiêu của xét nghiệm là xác định WOI (Window Of Implantation - cửa sổ làm tổ) theo cá thể hóa. Sinh thiết niêm mạc tử cung thực hiện vào ngày 7 sau khi có đỉnh LH hoặc ngày 6 của Progesterone trong chu kỳ nội tiết nhân tạo.
Kết quả đánh giá ở các mức: tiếp nhận, tiền tiếp nhận và hậu tiếp nhận
Nếu kết quả là tiền tiếp nhận thì sẽ chuyển phôi muộn hơn ở chu kỳ tiếp theo do vậy phải cá thể hóa việc chuyển phôi.
PGS Nguyễn Xuân Hợi cho biết nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh vai trò quan trọng của cửa sổ làm tổ.
Tại Việt Nam, PGS Nguyễn Xuân Hợi đã sử dụng xét nghiệm ERA Test (có tên là Genratest của xét nghiệm quốc tế GENTIS) cho 2 bệnh nhân đã thất bại làm tổ nhiều lần, 2 bệnh nhân này sau khi chuyển phôi đúng thời điểm cửa sổ làm tổ đã mang thai. BS Hợi hy vọng tại Việt Nam sẽ có nhiều hơn các nghiên cứu về Genratest để hỗ trợ cho các bác sĩ trong việc xác định cửa sổ làm tổ.
BS Nguyễn Xuân Hợi cho rằng: Mặc dù ERA test còn nhiều tranh cãi nhưng với những trường hợp thất bại làm tổ nhiều lần dù phôi đẹp, niêm mạc tử cung tốt… thì chúng ta cũng nên đánh giá xem cửa sổ làm tổ của bệnh nhân ra sao.
Thực hiện: Tại 4 trung tâm IVF lớn ở Hà Nội và HCM
Thời gian: từ 11/2019 – 7/2020 với 101 mẫu.
Kết quả sau xét nghiệm:
.jpg)
Tuyết Mai (tổng hợp)
[content_more] => [meta_title] => Xác định cửa sổ làm tổ - Đánh giá của chuyên gia IVF trong các hội nghị khoa học năm 2020 [meta_description] => GS.TS Nguyễn Đình Tảo, PG.TS Hồ Sỹ Hùng, PGS.TS Nguyễn Xuân Hợi trong các bài báo cáo của mình đều có nhắc đến xét nghiệm Eratest (Genratest) - xác định thời gian tối ưu cho chuyển phôi. [meta_keyword] => WOI,Eratest,Genratest,Thời gian cho chuyển phôi,Cửa sổ làm tổ,GS Nguyễn Đình Tảo,PGS Hồ Sỹ Hùng,PGS Nguyễn Xuân Hợi,GENTIS [thumbnail_alt] => [post_id] => 614 [category_id] => 15 ) )